[1953] Tokyo Monogatari | Tokyo Story | Câu Chuyện Tokyo
Tên gốc : Tokyo Monogatari
Tên Việt khác : Chuyến Đi Tokyo
Đạo diễn : Yasujiro Ozu
Sản xuất : Takeshi Yamamoto
Kịch Bản : Kogo Noda, Yasujiro Ozu
Diễn viên : Chishu Ryu, Chieko Higashiyama, Setsuko Hara
Hãng sx : Shochiku
Ngày ra đời : 3-11-1953
Thời lượng : 136 phút
Ngôn ngữ : Nhật Bản
Cứ mười năm một lần Viện điện ảnh hoàng gia Anh tổ chức trưng cầu ý kiến trong giới làm phim và phê bình phim thế giới để bình chọn mười phim hay nhất của nhân loại. Lần bình chọn năm 1992 trong số mười phim hay nhất có phim Câu Chuyện Tokyo của đạo diễn Ozu (xếp thứ 3). Đến lần bình chọn gần đây vào năm 2002, Câu Chuyện Tokyo vẫn nằm trong danh sách trên (xếp thứ 5). Đây được xem là một trong những kiệt tác lớn nhất của cố đạo diễn Yasujiro Ozu.
Nội dung : Hai vợ chồng già từ tỉnh quê Onomichi lên Tokyo và Osaka để thăm các đứa con đã trưởng thành và đang rất bận rộn lập nghiệp của họ. Tại đây, tuổi già trong vòng tay của những đứa con lại càng cảm thấy thêm hiu quạnh và thiếu hòa hợp khi họ nhận ra rằng các đứa con đã bị đời sống riêng cuốn đi và không còn tâm trí, thời gian dành cho họ nữa. (credit to hebe8586@yahoo.vn.com)
Một số hình ảnh trong phim :
TOKYO STORY
Tác giả: Roger Ebert.
Không còn câu chuyện nào có thể đơn giản hơn. Một cặp vợ chồng già làm một chuyến đi lên Tokyo thăm con cháu. Con của họ ai nấy đều bận rộn. Chuyến viếng thăm trở nên tồi tệ theo một cách khẽ khàng nhất, không cần ai thừa nhận cả. Hai vợ chồng liền quay về nhà. Vài ngày sau, người vợ ngã bệnh rồi qua đời. Và bây giờ là lúc để bọn trẻ làm một chuyến hành trình ngược lại.
Từ một vài yếu tố trên, Ozu đã tạo nên một trong những tác phẩm điện ảnh vĩ đại nhất mọi thời đại. Tokyo Story không hề chứa đựng những yếu tố tình cảm lãng mạn, ướt át, nó hờ hững với những khoảnh khắc mà một bộ phim bình thường hay chú tâm khai thác. Nó không hề gượng ép cảm xúc mà là chia sẻ quan điểm của nó đến với khán giả. Và nó đã làm điều này tốt đến nỗi tôi đã rơi nước mắt trong 30 phút cuối phim. Nó đã góp phần vinh danh điện ảnh. Nó chứng tỏ được một điều rằng phim ảnh có thể giúp con người bước từng bước nhỏ tiến đến sự hoàn hảo.
Nó đã làm điều này với các nhân vật phổ quát đến mức chúng ta có thể nhận ra họ ngay tức thì, tỉ như lúc ta đối diện với bản thân mình trong gương. Bộ phim được làm ra cách đây hơn 50 năm tại Nhật Bản bởi một người đàn ông sinh ra cách đây cả trăm năm. Nó kể về gia đình, về bản chất tự nhiên của con người, những lỗi lầm và cả những cuộc hành trình vụng dại nhằm tìm kiếm tình yêu, hạnh phúc của con người nói chung. Không phải là do cuộc sống quá bận rộn để từ đó lơ là với gia đình mà là ta phải tìm cách sắp xếp, cân đối cuộc sống để đối phó với hàng loạt những câu hỏi về tình yêu, công việc và cả cái chết. Chúng ta thường hay tránh né bằng cách trốn vào trong những chân lý rẻ tiền, các cuộc đối thoại vô thưởng vô phạt và cả sự lãng quên. Tới khi có cơ hội để mọi thành viên trong gia đình tụ tập chia sẻ niềm vui nỗi buồn thì chúng ta lại quay qua bàn về thời tiết và xem TV.
Ozu không chỉ là một đạo diễn tuyệt vời mà còn là một người thầy đáng kính, và là một người bạn sau khi bạn đã xem qua phim của ông. Chưa có một đạo diễn nào khiến tôi dành nhiều tình cảm cho mỗi cảnh quay của ông như vậy. Tokyo Story mở màn với một tràng dài những tiếng kêu phụt phụt phát ra từ động cơ của một chiếc tàu, kèm theo đó là thứ âm nhạc buồn vui lẫn lộn từ đài radio vọng về từ phía xa. Ngoài ra còn có thêm cảnh những khu phố xung quanh nữa. Nếu bạn hiểu rõ về phim của Ozu, hẳn bạn cũng biết là con tàu không hẳn là nền cho cốt truyện, rằng âm nhạc sẽ không bao giờ được dùng để nhấn mạnh hoặc diễn giãi cảm xúc, hay các khu phố có thể là một trong những địa điểm câu chuyện sẽ diễn ra. Nhưng điều đó cũng không quan trọng cho lắm. Ozu hay dùng tới cách quay "Pillow shots" (tựa như lối nói đệm trong thi ca Nhật Bản) phân chia các cảnh trong phim ra thành từng phần ngắn gọn, hình ảnh gợi nhiều liên tưởng từ cuộc sống bình nhật. Ông rất thích tàu lửa, mây, khói thuốc lá, quần áo móc trên dây, những tấm biểu ngữ bay trong gió (ông thường tự tay vẽ các tấm biểu ngữ cho phim của mình).
Chiến lược thị giác của ông thường rất đơn giản(do đó lại càng thâm thúy). Máy quay không phải lúc nào cũng được đặt ở vị trí 3 feet trở lên từ sàn nhà (tầm nhìn của người Nhật lúc ngồi trên chiếu tatami), nhưng thường là như vậy. "Lí do cho vị trí máy ảnh thấp đó là nó giúp loại bỏ chiều sâu và tạo ra một khoảng không gian hai chiều" (Donald Ritchie). Theo đó, người xem có thể hiểu rõ giá trị tác phẩm hơn, Ozu khiến ta phải để ý tới từng đường nét, tầm quan trọng và phong thái của mọi cảnh quay-điều này giúp phản ánh chính xác cảm xúc của người xem qua mỗi phân cảnh.
Ozu hầu như không bao giờ di chuyển máy quay (nó đã di chuyển 1 lần trong Tokyo Story, vốn dĩ là điều rất hiếm thấy). Mỗi một cảnh quay đều mang trong đó một giá trị ý nghĩa riêng, cho dầu đó là một chuỗi những sai lầm chăng nữa. Tất cả các cảnh đều được dàn dựng theo một số phương cách nhất định. Trên nền của một cảnh quay trong nhà, ở một góc trong cùng, là một ấm trà nhỏ. Ozu rất yêu cái ấm trà đó. Nó tựa như một kí hiệu đóng dấu màu đỏ của các nghệ sĩ khắc gỗ xứ Phù Tang. Đó chính là dấu ấn của Ozu!
Nếu có một cử động nào đó trong phim của Ozu, nó đến từ thiên nhiên hoặc chính con người chứ không phải từ camera. Ông thường cho chiếu cảnh một căn phòng trước khi nhân vật bước vào và lưu lại vài giây sau khi họ rời khỏi đó. Nếu họ bước lên cầu thang, sự vắng mặt của họ trên màn ảnh thường đủ dài để họ thực sự làm điều đó. Khi một nhân vật của ông nói chuyện, ông cho quay lại toàn bộ cuộc đối thoại. Không hề cắt một đoạn nào, không tới một phân cảnh nghe ngóng, cũng không có một đoạn thoại chồng chéo nào cả. Ozu hoàn toàn thoải mái với sự yên lặng, tĩnh mịch đó. Các nhân vật nói ít mà ngụ ý thì nhiều. Người cha già trong Tokyo Story thường mỉm cười và nói "Vâng", và những gì ông nói lúc thì có nghĩ là "Vâng, đúng như vậy", lúc thì lại không, đôi lúc là sự hối tiếc sâu sắc, cũng có khi là một quyết định mà ông giữ lại cho riêng mình.
Liệu có ai xem 1 bộ phim chỉ để dõi theo phong cách làm phim không? Ồ, có đấy! Một nhà làm phim với phong cách tao nhã tinh tế như Ozu thường hay đặt nhân vật của mình ở vị trí cận cảnh, tập trung vào sắc thái của cuôc sống hằng ngày. Đây chính là phong cách làm phim nhân bản nhất, loại bỏ hết thảy máy móc thiết bị, hiệu ứng, chỉnh sửa cắt xén, làm khán giả xúc động bằng chính những cảm xúc chân thật nguyên sơ nhất của con người, chứ không phải bằng những kĩ thuật kể chuyện thông thường.
Bây giờ hãy quay lại với gia đình Hirayama của Tokyo Story. Vai người cha già Shukichi là do Chishu Ryu thể hiện-ông là diễn viên ưa thích nhất của Ozu; con người mẹ-Tomi-được đóng bởi diễn viên Chiyeko Higashiyama. Người mẹ hiện lên với dáng vẻ hơi béo và vẻ mặt chất phác; người cha thì ngược lại-ông có một gương mặt dài và hơi nhợt nhạt. Không có một biểu hiện tình cảm quá độ nào giũa hai vợ chồng cả. Chúng ta được biết là người cha từng là một tay nghiện rượu nặng khi còn trẻ, sau đó thì dừng lại. Có một số gợi ý cho thấy cuộc hôn nhân của họ không hẳn hoàn mĩ nhưng lại rất bền vững.
Sống chung với họ ở nhà là cô con gái út Kyoko-một trong nhiều nhân vật độc thân sống chung với bố mẹ trong phim của Ozu (bản thân Ozu chưa bao giờ kết hôn, ông sống với mẹ cho tới lúc bà qua đời). Người con trai trẻ nhất-Keizo hiện đang làm việc ở Osaka. Cậu con trai cả Koichi là một bác sĩ cho 1 phòng khám khu vực tại Tokyo, chẳng phải quá xuất sắc như hai vợ chồng già từng nghĩ. Anh kết hôn với Fumiko và có 2 đứa con trai. Chị gái của anh Shige cũng đã kết hôn và hiện đang điều hành một cửa tiệm làm đẹp. Đứa con trai giữa đã chết trong thế chiến thứ hai. Và cả cô con dâu Noriko (ngôi sao Setsuko Hara) vẫn chưa tái hôn đang làm việc tại một văn phòng nhỏ ở Tokyo.
Có một cảnh đặc biệt trong phim khi 2 ông bà vừa mới tới nơi. Fumiko nói với cậu con trai lớn của mình:"Minoru, đây là ông bà nội của con đây" và rồi quay qua nói với mẹ chồng "Minoru đang theo học trung hoc". Đó hiển nhiên là lần đầu tiên Minoru gặp ông bà nội của mình, những câu chàng lại chạy vụt vào trong phòng. Chủ đề trong phim Ozu là sự suy vi của các gia đình Nhật Bản thông qua công việc cùng với sự hiện đại hóa. Và chỉ trong đôi dòng đối thoại, ông đã chỉ cho chúng ta thấy hai thế hệ đã trôi dạt ra khỏi nhau như thế nào.
Con cái trưởng thành là điều tốt. Họ đã cố gắng dành thời gian cho hai vị khách của mình. Ta bắt gặp 1 khoảnh khắc rất hài hước khi đôi vợ chồng già ở trên chuyến xe bus du lịch. Mọi người trên xe đều nghiêng ngả theo chuyến động của xe, họ đang dành thời gian thư giãn. Chỉ có 2 ông bà là đã dành qua nhiều thời gian nghỉ ngơi ở nhà vì không có ai rảnh rỗi dẫn họ đi tới đi lui cả. Khi Koichi mang bánh về biếu bố mẹ vợ, Shige than rằng chúng quá đắt đỏ, hai ông bà sẽ không đánh giá cao việc này. Họ vừa bàn luận chuyện đó vừa ăn hết cái bánh này qua cái kia. Điều kì lạ là người đối xử tử tế, chân thành với họ nhất lại là Noriko-cô con dâu góa bụa của họ.
Những người kia thấy áy náy vì không có đủ thời gian chăm sóc cho bố mẹ, rồi họ liền đi đến một giải pháp: gởi hai người tới suối nước nóng Atami. Cả Shukichi lẫn Tomi đều đồng tình. Tại khu spa, lớp trẻ nhảy múa, đánh bài, ca hát....và rồi có một cảnh quay rất tuyệt ở đây, khi Ozu quay hai đôi giày được đặt ngay ngắn ngoài cửa phòng của đôi vợ chồng già, và chỉ có thể thôi! Sáng sớm hôm sau, hai người ngồi cạnh nhau hướng về phía biển, rồi người chồng khẽ nói:"về nhà thôi" (let's go home).
Những nhân vật của Ozu ngồi cạnh nhau rất nhiều trong bất cứ một bộ phim nào của ông. Thay vì cách sắp xếp over-the shoulder, Ozu thích để cho 2-3 nhân vật làm thành một hàng ngang. Cho dù điều này có vi phạm quy ước eyeline(thỉnh thoảng họ trông có vẻ như không nhìn vào mắt nhau lúc nói chuyện) chăng nữa, Ozu chẳng mấy để tâm. Ông thường quan sát họ từ phía sau. Tôi nghĩ ông làm vậy nhằm làm cho người xem có thể nhìn thấy tất cả bọn họ cùng một lúc, người nói cũng như người nghe.
Suốt cả chiều dài bộ phim, Tomi và Shukichi bàn về sự thất vọng của cả hai bằng những lời lẽ hết sức thận trọng, được nhấn mạnh bằng những cái gật đầu tán thành, che giấu cảm xúc thật đằng sau những đạo lý quy tắc thường ngày. Hãy chú ý cách mà họ chỉ trích các cháu khi họ nói thích mấy đứa con hơn hẳn. Hãy lắng nghe cách mà họ gật gù tán thành rằng các con của mình là "tốt hơn mức trung bình".
Cuối phim, người già đều quay về nhà, người mẹ qua đời, rồi cả gia đình tập hợp lại trong buổi tang lễ, tất cả ngồi xếp thành một hàng dưới ống kính máy quay của Ozu. Bấy giờ mới xuất hiện những giọt nước mắt thực sự, từ cả những người vốn tỏ ý bực bội với chuyến đi này. Chishu Ryu là một diễn viên tuyệt vời, là bậc thầy trong cách ông che giấu nỗi đau buồn đằng sau những cái gật đầu, những lời thỏa hiệp, những câu nói bông đùa đi kèm với những công việc thường ngày. Khi người phụ nữ hàng xóm tới bày tỏ nỗi cảm thông, ông đã làm gì để thổ lộ nỗi sầu khổ thưong tiếc của mình? "Ồ, bà ấy là người rất bướng bỉnh....nếu biết có ngày hôm này, tôi đã đối tốt với bà ấy nhiều hơn". Ông khẽ ngập ngừng rồi tiếp "sống một mình như thế này, ngày tháng sẽ trôi qua rất dài".
Tokyo Story
by Hương Nguyễn
Trên hành trình nghệ thuật lắm chông gai, có khi người ta mải mê tìm kiếm một thứ gì đó quá xa xôi và mĩ lệ mà quên mất cuộc sống vốn đầy rẫy những điều bí mật giản đơn, bình dị mà xúc động đến ngỡ ngàng.
Những lúc ấy sao không dành ra một buổi sáng Chủ nhật thảnh thơi để đắm mình vào những khuôn hình tĩnh lặng của Ozu mà nhấm nháp từng cảm nhận tinh tế qua mỗi câu chuyện đời thường. Và Tokyo Story là một câu chuyện như thế.
Bộ phim bắt đầu bằng những cảm xúc hân hoan như những đứa trẻ của 2 người già khi chuẩn bị hành trình từ quê nhà lên thành phố Tokyo hoa lệ, lần đầu tiên trong đời, để thăm các con đã trưởng thành. Sự xuất hiện của 2 người già bắt đầu đưa đến những xáo trộn trong cuộc sống bình thường của những đứa con, từ đó nảy sinh những mâu thuẫn nhỏ bé, nhẹ nhàng len lỏi vào từng ngóc ngách của mối quan hệ gia đình. Đầu tiên là phản ứng của những đứa cháu, thằng lớn thì bực tức vì phải nhường chỗ cho ông bà, thằng bé thì chạy trốn khỏi vòng tay ôm và những cử chỉ làm thân của người bà. Hình như không có đứa nào thực sự vui mừng trước sự xuất hiện của ông bà. Cũng chẳng thể trách trẻ con bởi những xa cách về không gian và thời gian vô tình biến người thân ruột thịt thành những kẻ xa lạ. Ẩn nấp đâu đó dưới cái cười xòa của người ông, người bà kia là nỗi buồn, nhưng hơn tất cả là sự chấp nhận bởi vì cuộc sống đôi khi diễn ra như thế.
Từng chút từng chút một qua mỗi bước tiến của câu chuyện, niềm vui lúc ban đầu lặng lẽ tan đi và nỗi thất vọng, nỗi buồn cứ lớn dần lên để cuối cùng thành sự xót xa. Ấy là khi buổi đi chơi đầu tiên bị hủy bỏ vì cậu con cả bận việc, là khi họ nhận ra cuộc sống và công việc của cậu con trai cũng không danh giá như họ tưởng, là khi người bà buồn bã chơi cùng cháu trên đường đê. Buồn hơn nữa là những sự việc diễn ra ở nhà cô con gái. Cô con gái thực ra không phải là một đứa con bất hiếu, cư xử tàn tệ với bố mẹ bởi vì cô ta có suy nghĩ đến việc đưa bố mẹ đi chơi, thương bố mẹ đến Tokyo mà toàn ru rú ở nhà. Tuy nhiên qua một chi tiết rất nhỏ như cằn nhằn khi thấy chồng mua bánh đắt tiền cho bố mẹ ăn, nhân vật để lộ một chút ích kỷ, nhỏ nhen tính toán của người đàn bà có lẽ cũng phải vật lộn cho cuộc sống ở nơi thành thị. Chính nhờ những tính cách như thế mà nhân vật của Ozu lúc nào cũng chân thực, sống động và rất “con người” khiến cho người ta ghét nhưng lại cảm thông được.
Trong một nỗ lực cố gắng mang lại niềm vui cho bố mẹ, 2 người con đã góp tiền để đưa ông bà đến khu suối nước nóng nghỉ ngơi. Ý định tốt đẹp cuối cùng lại chẳng thể thành công bởi họ còn bận tìm địa điểm giá cả phải chăng mà không để tâm liệu không khí ở đó có thích hợp cho người già. Con cái đôi khi quá vô tâm để hiểu được nhu cầu của cha mẹ. Ông bà lặn lội đến Tokyo để được gần gũi con cháu, tận hưởng cảm giác sum họp gia đình thì cuối cùng lại bị tống đến một resort xa xôi, giữa một đám đông ồn ào xa lạ. Cảnh 2 người già đứng trên bờ biển, quay lưng về khán giả, phía trước mặt là mênh mông trời nước gợi lên một không khí buồn bã, nỗi cô đơn trống trải và cảm giác nhỏ bé, yếu đuối của những con người đang đi nốt đoạn dốc cuối cùng của cuộc đời. Lúc này đây, họ thực sự muốn trở về nhà, ngôi nhà của họ chứ không phải nhà của những đứa con, một nơi mà họ thực sự thuộc về, nơi duy nhất cho họ cảm giác bình yên và ấm áp.
Trở về từ cuộc đi chơi, đón ông bà là thái độ không vui vẻ gì của cô con gái bởi cô chuẩn bị tổ chức một bữa tiệc với đồng nghiệp và sự có mặt của 2 người già lúc này quả là không thích hợp. Ông bà đã chọn giải pháp ra đi bởi như tất cả những người già khác trên đời, khi cảm thấy mình đã già nua và vô dụng, họ chỉ muốn một điều duy nhất là không làm phiền đến cuộc sống của con cái. Tình tiết đơn giản là thế mà đẩy câu chuyện lên đến đỉnh điểm của bi kịch khi hai người già bị đẩy ra đường giữa một thành phố xa lạ. Cảnh họ ngồi trò chuyện trong công viên thật xót xa. Người cha bông đùa “giờ chúng ta thành những kẻ vô gia cư” và người mẹ lo lắng bị lạc giữa thành phố rộng lớn nhường này. Thành phố rộng lớn và những đứa con thành đạt, vậy mà không có nổi chỗ trú chân cho cả 2 người, để rồi họ, những người đã đồng hành gần hết cuộc đời, phải chia tay nhau để tìm kiếm một chỗ nghỉ ngơi đêm nay. Khoảnh khắc chia ly không có nước mắt cũng không có lời từ biệt, chỉ một câu nói “nếu bị lạc, chắc tôi với ông chẳng tìm thấy nhau” và nỗi buồn sâu sắc.
Buổi chuyện trò của 3 ông già, 3 người bạn cũ tại quán rượu lại mở ra cho người xem những khía cạnh, những suy ngẫm khác về cuộc sống. Rốt cuộc chẳng có cuộc đời của ai là hoàn hảo. Một người thì đã mất cả 2 đứa con trong chiến trận, một người thì hoàn toàn thất vọng về đứa con trai duy nhất và một người thì đang phải lang thang tìm chỗ ngủ qua đêm mặc dù có đến mấy đứa con. Ông cảnh sát trưởng năm nào, giờ chỉ là ông già vô dụng phải ăn bám vào con đã phải thốt lên cay đắng: “Thật xót xa khi con chết, nhưng sống với chúng nó cũng chẳng dễ dàng gì. Đằng nào cũng khổ”. Thoại trong phim Ozu bao giờ cũng thế, thật giản dị, thật đời thường mà cũng đầy triết lý.
Cùng lúc ấy, người vợ đang có những trải nghiệm khác trong ngôi nhà tràn đầy kỷ vật về cậu con trai quá cố. Đứa con đã chết 8 năm nhưng lúc nào cũng như đang còn sống đối với người cha người mẹ. Người con dâu chăm sóc mẹ chồng chu đáo. So với 2 đứa con ruột ở Tokyo này, xem ra cô gái chẳng chút quan hệ máu mủ nào lại quan tâm, chăm lo cho ông bà hơn cả. Là người làm công ăn lương vất vả, cô vẫn sẵn sàng xin nghỉ phép để đưa bố mẹ chồng đi chơi. Nhà cửa lụp xụp, chật chội, cô vẫn vui mừng đón tiếp ông bà. Cô gái này, ngược lại với nhưng người con ruột, lại đưa đến cho người xem niềm hy vọng về sự bền vững của mối quan hệ giữa con người với con người trong một gia đình. Cho dẫu người chồng, sợi dây liên hệ duy nhất giữa cô với gia đình này đã mất từ lâu nhưng có lẽ trong lòng cô đây vẫn là gia đình của mình, hai người già này vẫn là cha mẹ mình. Giữa con người với nhau, nhiều khi sự gắn bó không nằm ở khía cạnh pháp lý mà chính ở tình nghĩa. Cuộc sống dù có nhiều rạn vỡ, lắm lạnh lùng xa cách đến đâu, nhưng ở một góc nhỏ bé nào đó, tình người vẫn sưởi ấm trái tim chúng ta.
Sau hành trình dài gian khổ, trớ trêu thay, nguyện vọng cả gia đình sum họp đầy đủ lại chỉ thực hiện được sau cái chết của người mẹ. Trong đám tang này, vai trò, tích cách của từng người lại càng được bộc lộ rõ. 2 người con lớn dù đau buồn nhưng cũng đủ tỉnh táo và thực tế đến mức chuẩn bị trước áo tang. Cô con dâu và con gái út ngược lại, quá bàng hoàng trước cái chết bất ngờ của người mẹ. Sau đám tang, cả 3 đứa con ruột đều vội vã ra đi, về với cuộc sống riêng của mỗi người, chỉ có cô con dâu ở lại. Một lần nữa, sự đối lập trong cách cư xử giữa những người ruột thịt và người dưng lại làm cho người xem phải xa xót. Con cái là thế, khi lớn lên đều mải mê với gia đình của mình, quên mất cha mẹ, quên mất tuổi thơ và những ký ức thiêng liêng.
Cảnh cuối cùng của bộ phim để lại trong lòng người xem một nỗi cô đơn đến day dứt. Vẫn khung cửa sổ ấy, vẫn người hàng xóm ấy, vẫn chiếc bàn, chiếc chiếu ấy nơi mới hôm nào 2 người cùng nhau chuẩn bị hành trang lên đường, giờ đây chỉ còn mình người chồng lặng lẽ đếm từng ngày dài trôi qua, cô độc.
Mỗi khuôn hình trong Tokyo Story vẫn đầy những đặc điểm làm nên phong cách đặc trưng của Ozu như góc quay thấp, máy quay cố định để nhân vật di chuyển tự do trong khuôn hình, đảo hướng đột ngột, không tuân theo qui tắc trục hành động….Các sự kiện quan trọng ở đây bị bỏ qua một cách cố tình để tập trung vào cảm xúc hơn là kịch tính. Cụ thể như đoạn bà mẹ lâm bệnh, rồi qua đời, hầu như chỉ được miêu tả qua lời của những đứa con, qua bức điện tín thông báo…
Như bao bộ phim khác của Ozu, Tokyo story cũng chỉ xoay quanh những mối quan hệ gia đình giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, anh chị em với những tình tiết giản dị, những sự việc đời thường mà người ta có thể tìm thấy hàng ngày, hàng giờ ở bất kỳ đâu trên thế giới này. Nhưng bằng tài năng kỳ lạ, Ozu đã khiến cho người xem không thể rời mắt khỏi màn hình trong suốt 136 phút của bộ phim và còn tiếp tục suy ngẫm về nó hàng mấy thập kỷ sau kể từ ngày bộ phim ra đời để mỗi lần lại nhận ra một triết lý khác của cuộc sống.
Phong cách phim Ozu
by Trần Trà
Yasujiro Ozu là một tên tuổi lớn trong làng điện ảnh, nổi tiếng với những góc quay thấp, máy quay cố định-những cú máy tĩnh, đảo hướng đột ngột, không tuân theo quy tắc trục hành động…
Ở thời kỳ đầu khi còn là một đạo diễn trẻ, ông chịu ảnh hưởng khá lớn từ nền điện ảnh Hollywood, với những đề tài làm phim đa dạng, nhân vật khá hiện đại từ trang phục đến lối sống ( ảnh hưởng văn hóa phương Tây), ngoài việc sử dụng diễn viên là người Nhật thì những bộ phim ban đầu của ông có thể nói khá giống với những bộ phim Mỹ cùng thời kỳ.
Những đối tượng mà nội dung phim hướng tới trong phim của Ozu thời kỳ đầu, thường là những nhân vật nghèo, bị túng thiếu, và những vấn đề hay xung đột nảy sinh từ sự nghèo khó này. Ở giai đoạn sau, đạo diễn Ozu ít đề cập tới tầng lớp nghèo của xã hội nữa, ông tập trung hơn trong việc khắc họa những nhân vật là người bình dân. Và đặc biệt, đề tài chủ đạo là về cuộc sống gia đình. Ta sẽ phân tích kỹ về phong cách phim của đạo diễn Yasujiro Ozu trong giai đoạn sau qua tác phẩm Tokyo Story.
Bộ phim bắt đầu bằng những cảm xúc hân hoan như của 2 người già khi chuẩn bị hành trình từ quê nhà lên thành phố Tokyo, lần đầu tiên trong đời, để thăm các con đã trưởng thành, song họ đâu ngờ những gì sắp đến với họ chỉ là những sự đối xử đầy khó chịu và bất lịch sự. Sự xuất hiện của 2 người già bắt đầu đưa đến những xáo trộn trong cuộc sống bình thường của những đứa con, từ đó nảy sinh những mâu thuẫn nhỏ bé, nhẹ nhàng len lỏi vào từng ngóc ngách của mối quan hệ gia đình. Đầu tiên là phản ứng của những đứa cháu, khi chúng phải nhường chỗ cho ông bà, khi bị những cử chỉ yêu thương của ông bà làm khó chịu ( bởi chúng có được gặp ông bà bao giờ đâu, nên với chúng dường như ông bà là những người xa lạ). Ẩn nấp đâu đó dưới cái cười xòa của người ông, người bà kia là nỗi buồn, nhưng hơn tất cả là sự chấp nhận bởi vì cuộc sống đôi khi diễn ra như thế.
Đạo diễn Ozu đã tập trung về nội dung vào sự tan rã của những gia đình truyền thống ở Nhật Bản, những sự kiện đã khiến cho các thành viên trong gia đình bộc lộ được hết những suy nghĩ, hay niềm vui cũng như nỗi buồn thầm kín (khác với truyền thống trong các gia đình ở Nhật nói riêng và ở Châu Á nói chung, đó là sự cam chịu và sống khép kín).
Qua mỗi bước tiến của câu chuyện, ta thấy niềm vui lúc ban đầu lặng lẽ tan đi và nỗi thất vọng, nỗi buồn cứ lớn dần lên để cuối cùng thành sự xót xa. Chúng ta thấy lần lượt trong phim các chi tiết, khi 2 người già bị cậu con trai cả vì bận việc mà hủy cuộc đi chơi chung cả gia đình, rồi đồng thời nhận ra sự tự hào về công việc của người con trai ấy bấy lâu cũng chỉ là ảo tưởng. Hay như chi tiết diễn ra ở nhà cô con gái, khi cô cằn nhằn với chồng vì mua bánh đắt tiền cho bố mẹ ăn, ta như thấy chút gì đó chi li tính toán, của một người phụ nữ dù rất thương yêu bố mẹ, nhưng vì cuộc sống vật chất khó khăn nơi thành thị mà phải trở thành nhỏ nhen như thế. Chính nhờ những tính cách như thế mà nhân vật của Ozu lúc nào cũng chân thực, sống động và rất “con người” khiến cho người ta tuy ghét nhưng lại có phần cảm thông.
Ở một chi tiết khác, khi đưa bố mẹ già đi nghỉ ở khu suối nước nóng, Ozu đã xây dựng những chi tiết rất tinh tế cho 2 người con, đó là khi họ quá kỹ lưỡng tìm kiếm địa điểm với giá cả phải chăng mà quên mất những điều kiện phù hợp cho hai người già, đấy là khi 2 người con tận sâu trong lòng rất thương bố mẹ, mong muốn bố mẹ được nghỉ ngơi nhưng thói quen vật lộn với cuộc sống thành thị khó khăn đã làm họ nhòe đi cả tình cảm đó, mục đích đó. Phim của Ozu thường sử dụng cốt truyện nhẹ nhàng, bình dị, không có cao trào kịch tính và ít khi có một sự kiện trung tâm để bộ phim xoay quanh. Mỗi bộ phim, là những lát cắt về cuộc sống gia đình với cấu trúc không gian, thời gian mở và thường bỏ ngỏ… Cảnh 2 người già đứng trên bờ biển, quay lưng về khán giả, phía trước mặt là mênh mông trời nước gợi lên không ít xót xa, một không khí buồn bã, nỗi cô đơn trống trải và cảm giác nhỏ bé, yếu đuối của những con người đang đi nốt đoạn dốc cuối cùng của cuộc đời. Lúc này đây, họ thực sự muốn trở về nhà, ngôi nhà của họ chứ không phải nhà của những đứa con, một nơi mà họ thực sự thuộc về, nơi duy nhất cho họ cảm giác bình yên và ấm áp.
Chi tiết tiếp theo, đó là khi hai ông bà trở về từ chuyến đi chơi, thì nhà cô con gái đang chuẩn bị tổ chức một bữa tiệc. Ông bà cũng dễ dàng nhận ra thái độ không mấy vui vẻ của cô con gái dành cho mình, họ đã chọn giải pháp là không làm phiền tới con cái nữa, và lặng lẽ ra đi. Ta thấy, cách kể của Tokyo Story theo cách chuẩn mực cổ điển, khá vòng vo, song vẫn đẩy các tình tiết lên đến độ kịch tính, khi buộc khán giả xem phải đối đầu với tình huống mà nhân vật phải giải quyết. Các sự kiện then chốt của câu chuyện dường như có phần bị làm cho mờ nhạt do các phương tiện tỉnh lược, hay do các chi tiết phụ khác dường như lấn át đi, song khán giả vẫn cảm nhận thấy sự đau nhói và hồi hộp khi chờ đợi câu chuyện diễn biến.
Hai người già bị đẩy ra đường giữa một thành phố xa lạ, họ ngồi trò chuyện trong công viên. Người cha bông đùa “giờ chúng ta thành những kẻ vô gia cư” và người mẹ lo lắng bị lạc giữa thành phố rộng lớn nhường này. Thành phố rộng lớn và những đứa con thành đạt, vậy mà không có nổi chỗ trú chân cho cả 2 người, để rồi họ, những người đã đồng hành gần hết cuộc đời, phải chia tay nhau để tìm kiếm một chỗ nghỉ ngơi đêm nay. Khoảnh khắc chia ly không có nước mắt cũng không có lời từ biệt, chỉ một câu nói “nếu bị lạc, chắc tôi với ông chẳng tìm thấy nhau” và nỗi buồn sâu sắc.
Trong phim Ozu, khi các nhân vật hòa hợp với nhau, thì thường ta thấy họ được khắc họa bằng những hình ảnh gần như đồng nhất, như cùng nhìn về một hướng, hay cùng có một dáng vẻ trong cuộc trò chuyện, còn khi họ có tình cảm với nhau, Ozu thường cho họ biểu lộ tình cảm bằng những câu trò chuyện bâng quơ nhưng lại rất tình, rất mang tính chia sẻ. Cụ thể như trong cảnh trò chuyện của 3 ông già, 3 người bạn cũ tại quán rượu, khi họ tâm sự về cuộc đời. Cụ thể Một người thì đã mất cả 2 đứa con trong chiến trận, một người thì hoàn toàn thất vọng về đứa con trai duy nhất và một người thì đang phải lang thang tìm chỗ ngủ qua đêm mặc dù có đến mấy đứa con. Ông cảnh sát trưởng năm nào, giờ chỉ là ông già vô dụng phải ăn bám vào con đã phải thốt lên cay đắng: “Thật xót xa khi con chết, nhưng sống với chúng nó cũng chẳng dễ dàng gì. Đằng nào cũng khổ”. Thoại trong phim Ozu bao giờ cũng thế, giản dị, đời thường song đầy triết lý.
Cùng lúc ấy, người vợ đang ôn lại những ký ức về cậu con trai quá cố, người mà đã mất 8 năm song dường như lúc nào cũng hiện hữu đối với bà. Ozu đã xây dựng chi tiết rất nhân văn và đầy triết lý cuộc sống, đó là con cái dù lớn hay bé, dù còn hay mất, lúc nào cũng tồn tại; đầy yêu thương trong lòng cha mẹ. Người con dâu chăm sóc mẹ chồng chu đáo. Tuy là người làm công ăn lương vất vả, cô vẫn sẵn sàng xin nghỉ phép để đưa bố mẹ chồng đi chơi. Nhà cửa lụp xụp, chật chội, cô vẫn vui mừng đón tiếp ông bà. Cô gái này, ngược lại với nhưng người con ruột, lại đưa đến cho người xem niềm hy vọng về sự bền vững của mối quan hệ giữa con người với con người trong một gia đình. Dù chồng cô_sợi dây liên hệ duy nhất giữa cô với gia đình này đã mất từ lâu, song với cô, cô vẫn luôn coi hai người già này là cha mẹ. Chi tiết này đã cho thấy giữa con người với nhau, nhiều khi sự gắn bó không nằm ở khía cạnh pháp lý mà chính ở tình nghĩa.
Vốn lớn lên trong cảnh gần như vắng bóng người cha, Ozu tập trung khai thác những thời khắc quan trọng của gia đình như đám tang của cha mẹ hay những rắc rối xung quanh chuyện tìm chồng và đám cưới của con cái trong gia đình. Trong Tokyo Story, thời khắc quan trọng đó là đám tang của người mẹ. Trong đám tang này, vai trò, tích cách của từng người lại càng được bộc lộ rõ. 2 người con lớn dù đau buồn nhưng cũng đủ tỉnh táo và thực tế đến mức chuẩn bị trước áo tang. Cô con dâu và con gái út thì quá bàng hoàng. Sau đám tang, cả 3 đứa con ruột đều vội vã ra đi, chỉ có cô con dâu ở lại. Và thật đau lòng thay, khi mà vẫn khung cửa sổ ấy, vẫn người hàng xóm ấy, vẫn chiếc bàn, chiếc chiếu ấy nơi mới hôm nào 2 người cùng nhau chuẩn bị hành trang lên đường, giờ đây chỉ còn mình người chồng lặng lẽ đếm từng ngày dài trôi qua, cô độc. Qua cách khắc họa như vậy, ta thấy gì đó xót xa..
Đạo diễn Ozu thật tinh tế khi xây dựng câu chuyện như vậy, vì qua sự khắc họa như thế, mà ta sẽ điểm lại một cách trân trọng những thời khắc hạnh phúc ngắn ngủi trong phim, khi các nhân vật thể hiện niềm vui một cách rất kín đáo thông qua những nụ cười, ánh mắt hay câu thoại đơn giản, những giờ phút hạnh phúc ngắn ngủi, gắn bó giữa các thế hệ trong gia đình, đặc biệt là giữa ông bà với các cháu, giữa bố mẹ với các con…, để mà thấy trân trọng hơn một lần nữa.
Thay lời kết, ta thật kính nể với đạo diễn Ozu, khi phong cách của đạo diễn đã đạt tới mức hoàn hảo, với những cảnh quay tĩnh, các câu thoại ngắn, sâu sắc và những chi tiết tuy rất nhỏ nhưng đều thể hiện ý nghĩa tinh tế. Đó là ở cảnh quay gần cuối, sau cái chết của bà mẹ, ông bố cùng người con dâu ngồi quay về cùng một hướng để nói chuyện. Câu chuyện của hai người chỉ xoay quanh thời tiết nóng nực của mùa hè, song như là những hạt muối đang được xát vào lòng khán giả.. Khán giả xót xa không chỉ bởi nỗi đau của người bố đang được nín nhịn xuống tận đáy lòng mà không thể vỡ òa cởi mở, nỗi đau không thể diễn đạt thành lời kêu khóc mà đã trở nên chai sạn khi được chà xát bởi cuộc sống toan tính nhỏ nhen hàng ngày.., Đó là nỗi đau lặng lẽ trong dáng ngồi của người cha, hay nỗi buồn sâu kín của sự cô đơn tuyệt đối thoát ra từ tác phẩm…
Tokyo story của Ozu, tuy với nội dung đơn giản xoay quanh những mối quan hệ gia đình giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, anh chị em với những tình tiết giản dị, những sự việc đời thường mà người ta có thể tìm thấy hàng ngày, nhưng bằng một phong cách rất Ozu, ông đã khiến cho người xem không thể rời mắt khỏi màn hình trong suốt 136 phút của bộ phim và còn tiếp tục suy ngẫm về nó hàng mấy thập kỷ sau kể từ ngày bộ phim ra đời, để mỗi lần lại nhận ra một triết lý khác của cuộc sống.
No comments:
Post a Comment